Saturday, March 4, 2023

Vn có >3000km bờ biển nhưng phải nhập 600 nghìn tấn muối/năm. Nếu giao CSVN quản lý sa mạc Sahara, vài năm sau sẽ phải nhập cát.


 Vn có >3000km bờ biển nhưng phải nhập 600 nghìn tấn muối/năm. Nếu giao CSVN quản lý sa mạc Sahara, vài năm sau sẽ phải nhập cát.



(ĐCSVN) - Là đất nước có nhiều tiềm năng để sản xuất muối nhưng mỗi năm Việt Nam vẫn phải nhập khẩu từ 400-600 nghìn tấn muối để đáp ứng nhu cầu trong nước. Trong khi đó, muối nội địa giá trị thấp, tồn kho nhiều. Nhiều diêm dân đã bỏ nghề, chuyển sang công việc khác,…Vậy nghịch lý này xuất phát từ đâu?


Thống kê của Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT) cho thấy, năm 2021, diện tích sản xuất muối của nước ta khoảng 11.393ha. Trước đó, năm 2017 đạt 13.158ha, năm 2018 với 13.074ha, năm 2019 đạt 12.494ha…Về sản lượng, năm 2020 đạt 1.334.507 tấn, năm 2021 đạt 914.999 tấn. Các sản phẩm muối đa dạng, nhất là sản phẩm dùng trong ăn uống, thực phẩm, hiện nay được phân thành 4 nhóm chính  gồm: muối thô, muối tinh, muối công nghiệp và muối thực phẩm.

Tuy nhiên, một thực tế hiện nay, mặc dù là nước có nhiều tiềm năng để sản xuất muối khi có bờ biển dài hơn 3.200km, nhiều địa phương có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển cánh đồng muối như: Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận…nhưng hiện nay, muối của Việt Nam chưa được đánh giá cao, giá bán thấp. Đồng thời, dù sản lượng muối trung bình trong những năm gần đây đạt trên 1 triệu tấn/năm nhưng vẫn không đủ để đáp ứng nhu cầu sử dụng hàng năm của cả nước, rơi vào khoảng từ 1,5-1,6 triệu tấn. Mỗi năm Việt Nam vẫn phải nhập khẩu từ 400-600 nghìn tấn muối để đáp ứng nhu cầu trong nước.

Đây cũng là vấn đề “nan giải” khi dự báo nhu cầu về tiêu dùng muối toàn quốc sẽ đạt khoảng 2 triệu tấn vào năm 2030, trong đó, muối công nghiệp 1,35 triệu tấn.

Bên cạnh đó, theo báo cáo của Bộ Công Thương, giai đoạn 2017-2020, lượng muối nhập khẩu theo hạn ngạch thuế quan công bố là 110.000 tấn. Trong khi tổng nhu cầu muối công nghiệp của các doanh nghiệp để sản xuất hiện nay khoảng 350 nghìn tấn. Lượng muối nhập khẩu theo hạn ngạch thuế quan được phân giao còn thấp, không đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất hóa chất.

Vậy nguyên nhân từ đâu mà Việt Nam vẫn phải nhập khẩu muối để đáp ứng nhu cầu trong nước và kể cả để phục vụ nhu cầu sản xuất hóa chất trong khi là nước có nhiều tiềm năng cho sản xuất muối?.

Lý giải cho thực trạng trên có thể thấy do việc sản xuất muối của nước ta hiện nay chủ yếu vẫn theo phương pháp thủ công, quy mô phân tán theo hộ diêm dân (chiếm tới 69% diện tích), nên năng suất, chất lượng muối thấp. Chất lượng và số lượng muối tại các đồng muối công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành công nghiệp hóa chất, nên vẫn phải nhập khẩu muối công nghiệp. Lượng muối của các đồng muối công nghiệp chủ yếu phục vụ chế biến muối tinh, cung cấp muối cho ngành công nghiệp chế biến thực phẩm nên cạnh tranh trực tiếp với muối do diêm dân sản xuất.

Thứ nữa, có thể thấy, tại một số vùng sản xuất muối của nước ta có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi cho phát triển sản xuất muối quy mô công nghiệp nhưng chưa được quan tâm đầu tư phát triển.

Đáng chú ý, vấn đề khó khăn trong liên kết sản xuất muối cũng là một nguyên nhân dẫn đến ngành muối Việt Nam chưa có thế mạnh cạnh tranh. Và đây cũng chính là lý do hiện nay mặc dù có nhiều nhà đầu tư muốn tham gia vào ngành chế biến muối, tuy nhiên, do chưa có sự liên kết nên việc thu hút đầu tư vào rất khó.

Thực tế tại tỉnh Bạc Liêu, hiện hoạt động của các hợp tác xã trong lĩnh vực diêm nghiệp còn gặp nhiều khó khăn do muối làm ra chỉ bán được cho thương lái, chưa có hợp đồng ký kết giữa hai bên, chưa liên kết được với các doanh nghiệp thu mua của địa phương. Trong khi đó, các doanh nghiệp sản xuất chế biến muối trên địa bàn tỉnh chưa có nhiều hoạt động trong việc liên kết tiêu thụ, bao tiêu sản phẩm cho các hợp tác xã, tổ hợp tác và diêm dân sản xuất muối. Nguyên nhân do giao thông đi lại và vận chuyển, mua bán trao đổi muối của diêm dân sản xuất tại đồng ruộng tới khu chế biến, bảo quản của các doanh nghiệp rất khó khăn, làm tăng thêm chi phí giá thành sản xuất. Mặt khác, hiện nay, tất cả cơ sở vật chất phục vụ sản xuất muối của diêm dân đều đã xuống cấp, thậm chí hư hỏng nghiêm trọng, dẫn đến năng suất muối không cao. Cùng với sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết, đặc biệt trước những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, mưa nắng thất thường đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến nghề sản xuất muối phơi nước hiện nay. Sản lượng muối cung cấp cho các cơ sở chế biến không ổn định, ảnh hưởng đến sự gắn bó, liên kết giữa diêm dân và các doanh nghiệp.

Theo ông Bùi Sơn Long – Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Công nghệ Muối biển, tại thời điểm hiện nay, nhu cầu muối tăng lên rất cao. Muối nguyên liệu, muối tinh chế đang rất khan hiếm và nhu cầu muối tinh ở trong nước rất lớn. Tuy nhiên, ông Long cũng chỉ ra rằng: “Nhu cầu muối trong nước rất cao nhưng tại sao chúng ta không phát triển được? Điều này do hầu hết là chúng ta làm muối giống nhau, mặc dù có lợi thế nhưng làm muối thô, làm giống nhau nên cạnh tranh rất khó.”

Phân tích thêm về nguyên nhân của nghịch lý ngành muối hiện nay, bà Nguyễn Thu Thủy – Trưởng ban phát triển dự án thuộc Tập đoàn BIM Group cho rằng, do việc hạ tầng đồng muối không được đầu tư nâng cấp đồng bộ nên đã ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng muối, dẫn đến giá thành bán không cạnh tranh được với muối nhập khẩu. Cùng với đó là việc chúng ta còn chủ yếu sản xuất muối thô, chưa đáp ứng được khoa học công nghệ để đưa vào chuỗi sản xuất; khâu lưu trữ, vận chuyển logistics còn yếu. Số lượng doanh nghiệp lớn đầu tư vào ngành muối vẫn còn hạn chế, chất lượng muối chưa được đồng đều, giá cả đầu ra còn bấp bênh,…

Cùng với những khó khăn trên, hiện nay, thị trường muối gần như chưa có sự quảng bá thương hiệu, chỉ dẫn địa lý nên chưa xuất hiện các thương hiệu mạnh có tính chủ đạo, dẫn dắt,…Việc cho các hộ diêm dân vay vốn đầu tư sản xuất muối cũng khó triển khai, vì thu nhập từ sản xuất muối thấp nên nhiều hộ dân gặp khó khăn trong vấn đề trả nợ Ngân hàng đúng thời hạn quy định.

Chính việc giá bán muối thấp cũng là nguyên nhân lý giải tại sao nhiều diêm dân  không mấy mặn mà với sản xuất muối nên đã bỏ ruộng để chuyển sang công việc khác có thu nhập cao hơn.

Để gỡ khó cho ngành muối Việt Nam hiện nay, các doanh nghiệp cho rằng, với các đồng muối sản xuất tập trung (hay còn gọi là các đồng muối công nghiệp) cần quay về với sản xuất muối công nghiệp (kết tinh dài ngày, nước chạt sâu, làm sạch sau thu hoạch, cơ giới hóa đồng bộ). Muối công nghiệp làm nguyên liệu cung cấp cho các nhà máy hóa chất, nguyên liệu cho các nhà máy chế biến muối tinh sấy cao cấp để góp phần thay thế muối tinh nhập khẩu từ Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ.

Đặc biệt, cần tập trung phát triển mối liên kết, hợp tác giữa doanh nghiệp và diêm dân, xây dựng vùng nguyên liệu muối chất lượng cao, phát triển ổn định, bền vững, đảm bảo hài hòa giữa lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của diêm dân. Khuyến khích mở rộng doanh nghiệp, thành lập hợp tác xã để hỗ trợ diêm dân trong cung ứng vật tư, bao tiêu sản phẩm cho diêm dân, phân định rõ trách nhiệm của các bên tham gia liên kết và chia sẻ lợi ích tạo giá trị gia tăng.

Đi cùng với đó là việc xúc tiến thành lập các hợp tác xã, tổ hợp tác để giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Xây dựng và phát triển các mô hình hợp tác, liên kết, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm theo hợp đồng thông qua triển khai thực hiện Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 5/7/2018 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.

Bàn về tương lai phát triển của ngành muối Việt Nam, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Trần Thanh Nam cho rằng, cần tìm cách tháo gỡ, “phá tung” các ách tắc để ngành muối Việt Nam trở về đúng với giá trị vốn có. Trong đó, cần tìm hiểu kỹ về thông tin, về nhu cầu thị trường để từ đó quay trở lại khâu tổ chức sản xuất. Sau đó tiến đến xây dựng chỉ dẫn địa lý, thương hiệu của ngành muối.

Thực tế hiện nay, nhiều ý kiến cho rằng, Nhà nước cần đẩy nhanh đầu tư cơ sở hạ tầng cho sản xuất ngành muối. Trong khi đó, các địa phương cũng cần phải điều chỉnh quy mô giữa sản xuất muối thủ công và công nghiệp, từ đó, đưa ra những cơ cấu sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Mặt khác, cần xây dựng và hoàn thiện các quy định, tiêu chí để đảm bảo chất lượng muối; có chính sách điều tiết nhập khẩu phù hợp và kiểm soát tốt muối thô nhập khẩu từ nước ngoài về Việt Nam.

Ngoài ra, Nhà nước cần có những cơ chế ưu đãi hơn nữa về đất đai cũng như nguồn vốn vay cho các doanh nghiệp đầu tư lớn, áp dụng khoa học công nghệ trong sản xuất muối, chế biến để giữ vững thị trường muối và phục hồi sản xuất công nghiệp sản xuất muối trong nước và hướng tới xuất khẩu. Đồng thời, có chính sách về hỗ trợ thị trường, xúc tiến thương mại, thúc đẩy chương trình liên kết giữa các đơn vị sản xuất muối và kênh tiêu thụ sản phẩm; đào tạo nguồn nhân lực sản xuất trực tiếp cho các địa phương và doanh nghiệp./.

BT




No comments:

Post a Comment