Bút Sử
Phần trình bày với đề tài “Những Người Vợ và Tình của Hồ Chí Minh” dựa vào tài liệu của các tác giả viết về Hồ Chí Minh như William Duiker, Pierre Brocheux, Thành Tín (Bùi Tín cựu đảng viên cộng sản), Trần Trọng Kim, Trần Gia Phụng…
Tăng Tuyết Minh
Hồ Chí Minh có làm đám cưới với Tăng Tuyết Minh tại Quảng Châu vào 10/1926. Lúc này ông ta có bí danh là Lý Thụy. Hai người sống chung với nhau hơn nửa năm. Đến 4/1927 thì Lý Thụy bỏ Tăng Tuyết Minh, rời Quảng Châu đến các nơi khác hoạt động, cũng để trốn lánh quân Tưởng Giới Thạch đang lùng bắt những người cộng sản.
Nguyễn Thị Minh Khai
Minh Khai là thành viên Đảng Cộng Sản Đông Dương và sang Hongkong hoạt động năm 1930, với vai trò thư ký riêng của Lý Thụy.
Ở Hongkong, tại trụ sở chi nhánh Bộ Đông Phương của Quốc tế cộng sản, hằng ngày, vào buổi sáng, Minh Khai học chính trị do Lý Thụy đích thân truyền dạy. Từ đó nẩy sinh tình cảm nam nữ giữa hai người. Lý Thụy có đệ đơn lên văn phòng thuộc Cục Viễn Đông Cộng Sản (FEB = Far Eastern Bureau) để xin cưới Minh Khai. Nhưng vào tháng 4/1931, Noulens, đại diện văn phòng, viết thư từ chối, trả lời cho Lý Thụy rằng ông ta cần biết ít nhất 2 tháng trước ngày cưới.
Liền sau đó, cũng 4/1931, Minh Khai bị bắt ở Hongkong, đến đầu năm sau thì được thả ra. Lý Thụy, lúc đó có bí danh Tống Văn Sơ, đã bị cảnh sát Hongkong bắt ngày 6-6-1931 tại Cửu Long (Kowloon), gần Hongkong, rồi bị trục xuất đầu năm 1933. Lý Thụy lên tàu tại Thượng Hải, đi xe lửa qua các vùng Siberia, Vladivostok, rồi đến Moscow đầu mùa xuân 1934.
Ngày 25/7/1935, tại Moscow khai mạc đại hội cộng sản quốc tế. Trong giấy tờ khai báo, Minh Khai có ghi chồng là Lin, bút danh của Hồ Chí Minh lúc đó.
“Cháu Lý Sâm”
Ít người biết chuyện này, ngoài tác giả Duiker. Vào 2 giờ sáng, ngày 6/6/1931, cảnh sát Hongkong ập vào căn phố ở Kowloon để bắt quốc tế cộng sản Nguyễn Ái Quốc. Lúc này ông ta mang giấy tờ có tên T.V. Wong (Tống Văn Sơ). Bên cạnh là một phụ nữ trẻ khai là “cháu’ của Tống Văn Sơ tên là Lý Sâm.
Người Vợ Nga
Tài liệu của ông Duiker cũng có đề cập tới một phụ nữ người Nga mà Đảng Cộng Sản Quốc Tế đã cưới cho Lin/Linov sau khi ông ta về Moscow và bị vào trường Đảng để học tập. Có tin đồn rằng Hồ có một con gái với người vợ này.
Vera Vasilieva
Theo lời con gái của bà Vera Vasilieva (thành viên người Nga trong tổ chức Quốc tế Cộng sản), kể cho nhà nữ sử học Sophia Quinn Judge (Hoa Kỳ), được ông Thành Tín viết lại trong sách “Về Ba Ông Thánh”, thì trong thời gian diễn ra đại hội nầy, ông Lin (tức Lý Thụy) hay ghé lại nhà bà Vera Vasilieva thăm. Mỗi lần ông tới thì có mùi nước hoa nồng nàn, ăn mặc rất chải chuốt, luôn mang cà vạt màu rất diện. Lin mang nhiều quần áo mới tặng cho mẹ con cô Vera. Có khi ông ta ở lại đêm và ngủ trên sofa.
Nông Thị Ngát hay Nông Thị Trưng
Năm 1941, Hồ về Cao Bằng. Ở hang Pac Bo, dân làng người Tầy và Nùng gọi ông ta là Già Thu, chỉ riêng Nông Thị Ngát gọi là Chú Thu. Chú Thu đặt bí danh cho Ngát là Nông Thị Trưng, “hằng ngày đến lán Chú Thu một giờ để được chỉ bảo.” Cuộc tình hang Pac Bó có kết quả là người con trai Nông Đức Mạnh mà nhiều sách báo đã đề cập tới.
Đỗ Thị Lạc
1942, Già Thu rời hang Pac Bo, lấy bí danh là Hồ Chí Minh tìm đường hoạt động bên Tàu. Hồ bị quân Tưởng bắt và giam nhiều tháng ở các trại giam vùng Quảng Tây tới Tĩnh Tây. Hồ về tới Pac Bo (Cao Bằng) vào gần cuối năm 1944.
Trong số 18 cán bộ theo Hồ về nước lần nầy có Đỗ Thị Lạc tức “chị Thuần”. Nhân thân của Đỗ Thị Lạc không được rõ ràng, chỉ biết rằng vào năm 1942, khi tướng Quốc Dân Đảng Trung Hoa là Trương Phát Khuê tổ chức lớp huấn luyện chính trị và quân sự cho các tổ chức cách mạng Việt Nam ở Đại Kiều (gần Liễu Châu), Đỗ Thị Lạc theo học lớp truyền tin.
Khi về Pac Bo, Đỗ Thị Lạc được Hồ Chí Minh giới thiệu với bản làng là người thay thế Nông Thị Trưng. Lạc sống chung với họ Hồ một thời gian, lo dạy trẻ em và vận động vệ sinh ăn ở của dân chúng ở Khuổi Nậm gần Pac Bo. Sử gia Trần Trọng Kim, trong sách Một Cơn Gió Bụi (trang 75) cho biết Đỗ Thị Lạc đã có một người con gái với Hồ Chí Minh. Sau đó thì hai mẹ con mất tích.

Nông Thị Xuân
Một phụ nữ xinh đẹp người Nùng, có thể nói người bất hạnh nhất trong số những người vợ của Hồ Chí Minh. Khi Hồ trở thành lãnh tụ quyền lực thì nàng cũng trở thành một người hộ lý chính thức.
Xuân không được sinh sống chung với Hồ mà bị ở một nơi khác và bị giám sát bởi một tên bộ trưởng công an rất lưu manh của Hồ Chí Minh tên là Trần Quốc Hoàn. Năm 1956, Xuân sinh cho Hồ một bé trai đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Sau đó Xuân ngõ ý muốn Hồ cho nàng trở thành một người vợ chính thức. Xuân bị thủ tiêu bằng cách trùm chăn vào đầu và đập nát đầu. Trước khi chết, Xuân còn bị tên Hoàn hãm hiếp một cách tàn nhẫn.
Vụ Hồ Chí Minh giết vợ này đã được tung ra bởi lá thư của anh bộ đội là người chồng sắp cưới của cô Vàng. Vàng là em họ của Xuân. Cô Nguyệt cũng là em họ của cô Xuân về cùng ở chung để giúp bé Trung. Vàng là nhân chứng trong vụ giết người bịt miệng rất tàn ác này do Hồ Chí Minh âm mưu tạo ra. Sau đó cô Vàng cũng bị thủ tiêu, xác cô được tìm thấy trên sông Bằng Giang. Cô Nguyệt cũng bị sát hại sau đó. Vụ giết người bịt miệng của 3 cô Xuân, Vàng, Nguyệt và một số bạn bè của các cô cũng bị giết lây được ông Vũ Thư Hiên ghi ra trong cuốn “Đêm Giữa Ban Ngày”.
Lá thư của anh bộ đội được đăng trong sách “Công Lý Đòi Hỏi” của cựu đảng viên Nguyễn Minh Cần.

Một vài hình ảnh không rõ nguồn gốc

Tài liệu mật từ Văn Phòng Chủ Tịch
Quốc hội Cộng Sản Việt Nam.
Nguyên văn bức thư này được giữ tại
Văn Phòng Chủ Tịch Quốc Hội Cộng Sản Việt Nam
Cao Bằng ngày 29-7-1983.
Kính gởi Ông Nguyễn hữu Thọ Chủ tịch Quốc hội Nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Tôi là một thương binh đã 25 năm nay vô cùng đau khổ, không dám hé răng với ai. Không phải chỉ vì vết thương bom đạn, chiến tranh mà là một vết thương lòng vô cùng nhức nhối. Nay tôi sắp được từ giã cái xã hội vô cùng đen tối này đi sang thế giới khác, tôi phải chạy vạy rất khó khăn mới viết được bức thư này lên Chủ tịch, hy vọng ông còn lương tri, lương tâm đem ra ánh sáng một vụ bê bối vô cùng nghiêm trọng tàn ác, mà người vợ chưa cưới của tôi là một nạn nhân. Nay tôi hy vọng những tên hung thủ được lột mặt nạ trước công chúng, không để cho chúng ngồi trên đầu trên cổ nhân dân.
Nguyên từ năm 1954 tôi có người yêu tên Nguyễn thị Vàng, 22 tuổi quê làng Hà Mạ, Xã Hồng Việt, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng. Cô Vàng có người chị họ là Nguyễn thị Xuân, tên gọi trong gia đình là cô Sang tức Minh Xuân. Tôi nhập ngũ đi bộ đội cuối năm 1952. Cô Vàng và cô Xuân tình nguyện vào công tác hộ lý trong một đơn vị quân nhu. Được mấy tháng sau ông Trần Đăng Ninh, Tổng cục trưởng Tổng cục hậu cần mấy lần đến gặp cô Xuân. Đầu năm 1955 thì đem xe tới đón về Hà Nội, nói là để phục vụ Bác Hồ. Được mấy tháng sau thì cô Xuân cũng xin cho cô Vàng về Hà Nội, ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm với cô Xuân và cô Nguyệt con gái ông Hoàng văn Đệ cậu ruột cô Xuân.
Đã luôn 2 năm tôi chỉ được tiếp thư chứ không được gặp cô Vàng, người yêu của tôi. Nhưng khoảng tháng 10 năm 1957 tôi bị thương nhẹ được đưa về điều trị tại bệnh viện Huyện Hoà An. Chúng tôi vô cùng sung sướng lại được gặp nhau. Trong một tuần lể cô Vàng kể lại mọi nỗi đau xót cô đã gặp phải cho tôi nghe. Tôi xin ghi lại tỉ mỉ những lời cô Vàng tâm sự với tôi, mà không bao giờ tôi có thể lãng quên đi được. Vàng kể:
Đầu năm 1955 cô Xuân được về gặp Bác Hồ. Bác Hồ định lấy cô Xuân làm vợ chính thức. Mấy tháng sau chị Xuân xin cho em cùng về ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm, Hà Nội. Còn tầng dưới thì cho ông Nguyễn Quý Kiên, Chánh văn phòng Thủ tướng phủ ở. Vì các lãnh đạo không cho chị Xuân cùng ở với Bác trên nhà chủ tịch phủ, giao cho ông Trần Quốc Hoàn, Bộ trưởng bộ Công an trực tiếp quản lý chị Xuân, cho nên chị Xuân mới được đem về ở 66 Hàng Bông Nhuộm, nhà của Công an.
Cuối năm 1956 chị Xuân sinh được một cậu con trai. Cụ Hồ đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Em có nhiệm vụ bế cháu.
Ông Bộ trưởng Công an có nhiệm vụ quản lý chị Xuân nên thường đến luôn. Nhưng một buổi tối vào khoảng mồng 6 hay mồng 7 tháng 2 năm 1957, ông Hoàn tới, ngồi nói chuyện vu vơ một tí rồi nắm tay chị Xuân, kéo vào một cái buồng xép, từ cầu thang đi lên, vật chị Xuân lên một cái giường nhỏ, định hãm hiếp. Chị Xuân bị nhét khăn vào miệng nhưng vẫn ú ớ la lên. Em hoảng sợ la tru tréo. Còn chị Nguyệt sợ quá, rúm người lại ngồi một góc tường. Nghe tiếng cửa sổ nhà dưới xô xầm vào tường, lão Hoàn bỏ chị Xuân ra, rút khẩu súng lục trong túi áo hoa lên nói to: “Chúng mày im mồm, không ông cho chết hết” rồi hầm hầm chạy xuống thang ra ô tô chuồn.
Chị Xuân thất thểu đi ra khóc nức nở, ôm choàng lấy em. Em hỏi nó nắm tay chị, sao chị không văng vào mặt nó để nó dắt đi? Chị Xuân vừa nức nở vừa nói: Đau khổ nhục nhả lắm. Chị phải nói hết để các em tha tội cho chị. Từ hôm chị mới về nhà này, có một bà già độ 60 tuổi ở một buồn dưới nhà, vợ một cán bộ CA đã chết, lên thân mật nói chuyện với chị rằng: Sao cô ở đây một mình? Bạn đàn bà để tôi nói thật cho cô biết. Cái lão đem cô về đây là một tên côn đồ lưu manh, dâm ô tàn ác vô kể. Tôi xin kể một vài chuyện cho cô nghe. Ông Lương Khánh Thiện, một UV Trung ương, bị đế quốc Pháp giết có con gái tên là Bình. Chị Đường, vợ anh Thiện đem con gái gởi bác Hoàn nhờ bác tác thành cho. Lão Hoàn đã hiếp nó, nó chửa rồi chọn một tên lưu manh vào làm CA để gả cô Bình làm vợ. Lão lại đem một cô gái có nhan sắc nhận là cháu, cũng hiếp cô gái này cho tới chửa, rồi giết chết quăng xác xuống hồ Ha Le để khỏi mang tiếng. Cán bộ CA nhiều người biết chuyện của nó, nhưng không ai dám hở răng, vì sợ lão vu cho tội gì bắt giam rồi thủ tiêu.
Nghe chuyện đó chị cũng khủng khiếp, nhưng lại nghĩ là nó đối với mọi người khác, còn đối với mình thì nó đâu dám. Nhưng chỉ được mấy hôm sau chị nghe tiếng giầy đi nhè nhẹ lên gác, chị chạy ra thì thấy nó đi lên nhếch mép cười một cách xõ lá. Nó chào chị rồi đi thẳng vào nhà, nó ôm ghì lấy chị vào lòng rồi hôn chị. Chị xô nó ra nói: “Không được hỗn, tôi là vợ ông chủ tịch nước”. Nó cười một cách nhạo báng: “Tôi biết bà to lắm nhưng sinh mệnh bà nằm trong tay tôi”. Rồi nó lại nói: “Sinh mệnh tất cả dân tộc Việt nam, kể cả bố mẹ anh chị nhà bà cũng nằm trong tay tôi. Tôi muốn bắt ở tù, thủ tiêu đứa nào tuỳ ý. Và tôi nói cho bà biết cụ già nhà bà cũng không ngoài tay với của tôi”.
Rồi nó rút khẩu súng lục dí vào ngực chị. Chị ngồi xụp xuống ghế nói: “Anh cứ bắn đi”. Nó cười khì khì: «Tôi chưa dại gì bắn. Tôi tặng bà vật khác». Nó dắt súng vào túi quần rồi rút ra một sợi dây dù to bằng chiếc đũa, đã thắt sẳn một cái thòng lọng. Nó quàng cái tròng vào cổ chị rồi kéo chị đi lại cái giường kia, đẩy chị nằm xuống, rồi đầu sợi giây nó buộc vào chân giường. Chị khiếp sợ run như cầy sấy. Nó nói : «Bây giờ bà muốn chết tôi cho bà chết». Rồi nó lột hết quần áo chị, nó ngồi xuống ngắm nghía ngâm nga:
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà
Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây
Phẩm tiên đã đến tay phàm
Thì vin cành quýt cho cam sự đời.
Rồi nó nằm đè lên hiếp chị. Chị xấu hổ lấy tay che mặt. Nó kéo tay chị nói: «Thanh niên nó phục vụ không khoái hơn ông già mà còn vờ làm gái». Xong nó cởi thòng lọng cho chị, rồi nó ngồi bên chị tán tỉnh hàng giờ: “Anh thương em lắm. Người ta gặp hạnh phúc phải biết hưởng hạnh phúc. Nếu em thuận tình thì muốn gì cũng có. Nó đeo vào tay chị một chiếc nhẫn vàng, chị đã ném vào nhà xí. Nó lại dặn: “Việc này phải tuyệt đối bí mật, nếu hở ra thì mất mạng cả lũ và tôi nói cho cô biết ông cụ tin tôi hơn cô”.
Rồi từ đó chị biến thành một thứ trò chơi của nó. Thấy bóng dáng nó chị như một con mèo nhìn thấy con cọp, hồn vía lên mây. Nó muốn làm gì thì tuỳ ý nó. Trong mấy tháng trời chị tính quẩn lo quanh, không biết tâm sự với ai mà không làm sao thoát khỏi nanh vuốt của nó. Nhớ lại lời nói của bà già, chị liền xin bác cho hai em về đây, mong tránh được mặt nó.
Nhưng những hôm Công an gọi các em đi làm hộ khẩu, đi làm chứng minh thư lâu hàng buổi là nó tới hành hạ chị. Nó bảo chị phải nói cho hai em biết. Phải biết câm cái miệng nếu bép xép thì mất mạng cả lũ. Hôm nay nó lại đây trắng trợn như vậy vì nó tưởng chị đã dặn hai em rồi. Bây giờ việc đã xẫy ra chị thấy rất nguy hiểm. Em nói: “Hay là chị em ta trốn đi?”. Chị Xuân nói: “Sau ngày sinh cháu Trung, chị thưa với Bác, bây giờ đã có con trai, xin bác cho mẹ con ra công khai”. Bác nói: “Cô xin như vậy là hợp tình, hợp lý. Nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được. Do đó cô đành phải chờ một thời gian nữa”. Mấy tuần trước Bác lại hỏi chị: “Các cô ở đó có nhiều người lạ tới thăm phải không?”. Chị thưa: “Ba chị em không có ai quen biết ở Hà Nội. Còn bà con ở Cao Bằng không biết chị em ở đâu”. Bác nói: “Không nhẽ ông Bộ Trưởng Công an nói dối”.
“Chị suy nghĩ mãi mới thấy rõ, nó muốn vu cáo chị em ta liên hệ với gián điệp hoặc đặc vu gì đó để định kế thoát thân nếu việc của nó bị bại lộ Bây giờ ta trốn cũng không làm sao thoát khỏi tay nó, mà nó còn vu cáo giết hại ba chị em chúng ta”. Chị Xuân lại nói: “chị bị giết cũng đáng đời, chị rất hối hận xin hai em về đây để chịu chung số phận với chị”. Em thấy nguy hiểm vì tên Hoàn đã nổi tiếng ở Bộ CA là một tên dâm bôn vô cùng tàn ác.
Đến độ một tuần sau, vào 7 giờ tối ngày 11 tháng 2 năm 1957, ngày em còn nhớ như đinh đóng cột. Một chiếc xe com măng ca thường đón chị Xuân lên gặp bác Hồ, anh Ninh xồm, người bảo vệ Trần Quốc Hoàn chuyển lên bảo vệ Bác, vào gặp chị Xuân nói lên gặp Bác. Chị Xuân mặc quần áo, xoa nước hoa rồi ra đi. Sáng hôm sau, 12 tháng 2, một nhân viên Công an Hà Nội đến báo tin chị Xuân gặp tai nạn ô tô chết rồi, hiện còn để ở nhà xác bệnh viện Phủ Doãn. Em hốt hoảng đưa cháu cho Chị Nguyệt, ra lên xe Công an vào bệnh viện. Em không được vô nhà xác, họ nói còn mổ tử thi. Lên một phòng chờ em thấy trong phòng đã khá đông người: Công an, Tòa án, Kiểm sát viên. Sau một tiếng, hai bác sĩ, một cán bộ Công an, một kiểm sát viên lên phòng chờ, đem theo một tờ biên bản đọc to lên cho mọi người nghe. Tử thi thân thể không có thương tích gì, thấy rõ không bị tai nạn ô tô và cũng không phải bị đâm chém đánh đập gì. Mổ tử thi trong cơ thể lục phủ ngũ tạng cũng không có thương tích gì. Da dầy không có thức ăn, không có thuốc độc. Tử cung không có tinh trùng biểu thị không bị hiếp dâm.
Duy chỉ có xương đỉnh đầu bị rạn nức. Mổ sọ não không còn óc, mà chỉ còn nước nhờn chảy tuôn ra. Bác sĩ tuyên bố đây có thể bị chùm chăn lên đầu rồi dùng búa đánh vào giữa đầu. Đây là phương pháp giết người của bọn lưu manh chuyên nghiệp của nhiều nước đã xử dụng. Em vô cùng đau khổ chạy về kể chuyện lại cho chị Nguyệt nghe để hai chị em cùng khóc. Ít lâu sau một cán bộ Công an đến bế cháu Trung đi, chúng em không được biết đem đi đâu. Rồi em thì được đi học một lớp y tá của khu tự trị Việt Bắc ở Thái Nguyên. Chị Nguyệt không biết họ cho đi đâu sống chết thế nào. Học mấy tháng thì em được chuyển về bệnh viện Cao Bằng, em khóc luôn, họ cho là em bị thần kinh nên cho về đây điều trị. May lại được gặp anh kể hết mọi chuyện cho anh nghe. Em nghĩ anh chỉ bị thương nhẹ, anh còn sống được lâu anh sẽ nói rõ cho toàn dân biết được vụ bê bối này. Còn em thì chắc chắn sẽ bị chúng giết vì em đã nói vụ này cho nhiều chị em bà con biết. Bọn hung thủ còn theo dõi em. Ở Cao Bằng có hôm em thấy thằng Ninh xồm tới gặp ông bác sĩ bệnh viện trưởng, được ít hôm họ tuyên bố em bị thần kinh được chuyển về điều trị tại Hoà An.
Tôi chỉ được gặp Vàng em tôi có một tháng, đến ngày mồng 2 tháng 11 năm 1957 cô Vàng đi về thăm ông cậu Hoàng văn Đệ. Hung thủ đi theo rồi giết chết em tôi quăng xác xuống sông Bằng Giang đến ngày mồng 5 tháng 11 mới nổi lên ở cầu Hoàng Bồ. Tôi được tin sửng sốt chạy về cầu Hoàng Bồ thì thi hài đã được kiểm nghiệm và chôn cất rồi. Nghe dư luận xôn xao bị đánh vở sọ, đồng hồ vẫn còn nguyên và người nhà đã nhận về chôn cất. Tôi đâm bổ về Hà Nội liên lạc được với một cậu bạn cùng học làm việc ở Toà án Hà Nội. Tôi kể vụ án em tôi bị giết thì bạn tôi sao cho tôi một bản Công Văn Viện Kiểm sát hỏi toà án về vụ em tôi và cô Xuân bị giết. Tôi xin sao bản văn đó trình ông để tiện việc điều tra. Vụ này nhiều người bị giết. Cô Xuân, vợ cụ Hồ Chí Min h, cô Vàng, vợ chưa cưới của tôi, cô Nguyệt, còn nhiều người ở Trường y tá Thái Nguyên nghe chuyện Vàng kể đi nói chuyện lại cũng bị giết lây.
Mấy chục năm nay tôi tim gan thắt ruột, nghĩ cách trả thù cho em tôi nhưng sức yếu thế cơ đành ngậm hờn chờ chết. Theo Vàng dặn lại, tôi liên hệ với một số cán bộ về hưu Công an, kiểm sát họ cho tôi biết cậu Trung ngày đó đã được đưa về cụ Bằng nuôi. Độ 4, 5 tuổi thì gửi cho Chu Văn Tấn, đến năm 13 tuổi là năm 1969 ngày Bác Hồ mất thì giao cho ông Vũ Kỳ, nguyên Thư Ký của Bác, nay là Phó Giám đốc Bảo tàng Hồ chí Minh làm con nuôi. Vũ Kỳ có 2 con đẻ là Vũ Vinh và Vũ Quang, còn Vũ Trung là con nuôi; là con chị Xuân với Bác Hồ. Tôi một thương binh sắp đi qua thế giới khác, máu hoà nước mắt viết thư này nhờ một người bạn chí tình, thành tâm bảo vệ lẽ phải, đánh máy bức thư gởi tới trình ông. Mong ông lưu ý xét cho mấy việc:
1- Các ông sẵn lòng bảo vệ chân lý điều tra cho ra những đứa thủ mưu, thủ ác, chứ không truy xét những người có lương tâm phát hiện lũ tàn ác.
2- Ở xã Hồng Việt bà con bạn hữu chị Xuân vào trạc tuổi 45 trở lên còn khá nhiều đều biết rõ ràng cô Vàng, cô Xuân, cô Nguyệt và chắc gia đình của cô Xuân còn khá nhiều di vật của cô Xuân. Nhưng tất cả mọi người đều khiếp sợ, không dám hé răng. Mong ông cho điều tra thận trọng, bí mật, vì việc điều tra này bị lộ thì cả lô bà con này bị thủ tiêu.
3- Cậu Nguyễn Tất Trung còn sống khoẻ mạnh nhưng việc điều tra lộ ra thì cậu cũng dễ dàng bị thủ tiêu. Tên hung thủ lái xe đón bà Xuân đi giết là Tạ Quang Chiến hiên nay là Tổng cục Phó Tổng cục Thể dục Thể thao. Còn tên Ninh xồm thì chúng tôi không hiểu đã leo lên chức vụ nào rồi.
Từ thế giới khác kính chúc Ngài nhiều hạnh phúc.
Vợ chồng Nguyễn Thị Vàng
English version
Ho Chi Minh’s Wives and Love
Posts by Historical Pen
The presentation with the theme “Ho Chi Minh’s Wives and Loves” is based on documents written by authors about Ho Chi Minh such as William Duiker, Pierre Brocheux, Thanh Tin (Former Communist Party member Bui Tin), Tran Trong Kim, Tran Gia Phung…
Tang Tuyet Minh
Ho Chi Minh married Tang Tuyet Minh in Guangzhou on October 10, 1926. At this time, he had the alias of Ly Thuy. The two lived together for more than half a year. In April 1927, Ly Thuy left Tang Tuyet Minh and left Guangzhou to work elsewhere, also to hide from Chiang Kai-shek’s army, who were searching for communists.
Nguyen Thi Minh Khai
Minh Khai was a member of the Indochinese Communist Party and went to Hong Kong to work in 1930, with the role of Ly Thuy’s personal secretary.
In Hong Kong, at the headquarters of the Communist International’s branch office of the Ministry of Oriental Affairs, every morning, Minh Khai studied politics personally taught by Ly Thuy. From there, a man-woman relationship arose between the two. Ly Thuy applied to the office of the Communist Far Eastern Bureau (FEB = Far Eastern Bureau) to marry Minh Khai. But in April 1931, Noulens, the office representative, wrote a letter of refusal, replying to Ly Thuy that he needed to know at least 2 months before the wedding date.
Soon after, also in April 1931, Minh Khai was arrested in Hong Kong, and was released early the following year. Ly Thuy, then alias Tong Van So, was arrested by the Hong Kong police on June 6, 1931 in Kowloon, near Hong Kong, and then deported in early 1933. Ly Thuy boarded a ship in Shanghai, took a train through the Siberian valleys, Vladivostok, and then reached Moscow in the early spring of 1934.
On July 25, 1935, the International Communist Congress opened in Moscow. In the declaration papers, Minh Khai recorded her husband as Lin, the pen name of Ho Chi Minh at that time.
Russian Wife
Mr. Duiker’s document also mentions a Russian woman whom the International Communist Party married to Lin/Linov after he returned to Moscow and was admitted to the Party school to study. Rumor has it that Ho has a daughter with this wife.
Vera Vasilieva
According to her daughter Vera Vasilieva (Russian member of the Communist International), told the historian Sophia Quinn Judge (USA), written by Mr. Thanh Tin in the book “On the Three Saints” , during this congress, Mr. Lin (ie Ly Thuy) often stopped by Vera Vasilieva’s house to visit. Every time he came, there was a strong scent of his perfume, very well dressed, always wearing a very colorful tie. Lin brought many new clothes for her mother and daughter Vera. Sometimes he stayed the night and slept on the sofa.
Nong Thi Ngat or Nong Thi Trung
In 1941, Ho returned to Cao Bang. In Pac Bo cave, the Tay and Nung villagers called him Già Thu, only Nong Thi Ngat called him Chú Thu. Chú Thu gave Ngat the alias of Nong Thi Trung, “going to Chú Thu’s shack every day for an hour for instruction.” Pac Bo’s love affair resulted in the son of Nong Duc Manh that many books and newspapers have mentioned.
Do Thi Lac
1942, Gia Thu left Pac Bo cave, took the alias Ho Chi Minh to find a way to work in China. Ho was captured by Chiang forces and held for many months in jails from Guangxi to Jingxi. Ho returned to Pac Bo near the end of 1944.
Among the 18 cadres who followed Ho back to the country this time, there was Do Thi Lac, meaning “sister Thuan”. Do Thi Lac’s identity is not clear, only know that in 1942, when the Chinese Kuomintang general Truong Phat Khue held a political and military training class for Vietnamese revolutionary organizations in Dai Kieu (near Lieu Chau), Do Thi Lac attended a communication class.
When returning to Pac Bo, Do Thi Lac was introduced to the village by Ho Chi Minh as the replacement for Nong Thi Trung. Lac lived with the Ho family for a while, taking care of children’s education and campaigning for people’s hygiene and accommodation in Khuoi Nam near Pac Bo. Historian Tran Trong Kim, in his book A Wind of Dust (page 75), said that Do Thi Lac had a daughter with Ho Chi Minh. Then the mother and daughter went missing.
Nong Thi Xuan
A beautiful Nung woman, arguably the most unfortunate of Ho Chi Minh’s wives. When Ho became the powerful leader, she also became an official personal service.
Xuan was not allowed to live with Ho but was in another place and was monitored by a very rogue police minister of Ho Chi Minh named Tran Quoc Hoan. In 1956, Xuan gave birth to a baby boy named Nguyen Tat Trung. Then Xuan asked Ho to let her become an official wife. Xuan was killed by covering her head with a blanket and smashing her head. Before her death, Xuan was brutally raped by Hoan.
This case of Ho Chi Minh’s wife’s murder was revealed by a letter from a soldier who was Ms. Vang’s fiancé. Vang is Xuan’s cousin. Vang is a witness in this very heinous silenced murder conspired by Ho Chi Minh. After that, Ms. Vang was also killed, her body was found in the Bang Giang River. The murder of two Xuan and Vang was recorded by Mr. Vu Thu Hien in “Night in Days”.
The soldier’s letter was published in the book “Justice Requires” by former Party member Nguyen Minh Can.





