Thursday, September 18, 2025

Những Người Vợ và Tình của Hồ Chí Minh

 Bút Sử

Phần trình bày với đề tài “Những Người Vợ và Tình của Hồ Chí Minh” dựa vào tài liệu của các tác giả viết về Hồ Chí Minh như William Duiker, Pierre Brocheux, Thành Tín (Bùi Tín cựu đảng viên cộng sản), Trần Trọng Kim, Trần Gia Phụng…

Tăng Tuyết Minh

Tăng Tuyết Minh, trẻ và già

Hồ Chí Minh có làm đám cưới với Tăng Tuyết Minh tại Quảng Châu vào 10/1926. Lúc này ông ta có bí danh là Lý Thụy. Hai người sống chung với nhau hơn nửa năm. Đến 4/1927 thì Lý Thụy bỏ Tăng Tuyết Minh, rời Quảng Châu đến các nơi khác hoạt động, cũng để trốn lánh quân Tưởng Giới Thạch đang lùng bắt những người cộng sản.

Nguyễn Thị Minh Khai

Nguyễn Thị Minh Khai

 Minh Khai là thành viên Đảng Cộng Sản Đông Dương và sang Hongkong hoạt động năm 1930, với vai trò thư ký riêng của Lý Thụy.

Ở Hongkong, tại trụ sở chi nhánh Bộ Đông Phương của Quốc tế cộng sản, hằng ngày, vào buổi sáng, Minh Khai học chính trị do Lý Thụy đích thân truyền dạy. Từ đó nẩy sinh tình cảm nam nữ giữa hai người. Lý Thụy có đệ đơn lên văn phòng thuộc Cục Viễn Đông Cộng Sản (FEB = Far Eastern Bureau) để xin cưới Minh Khai. Nhưng vào tháng 4/1931, Noulens, đại diện văn phòng, viết thư từ chối, trả lời cho Lý Thụy rằng ông ta cần biết ít nhất 2 tháng trước ngày cưới.

Liền sau đó, cũng 4/1931, Minh Khai bị bắt ở Hongkong, đến đầu năm sau thì được thả ra. Lý Thụy, lúc đó có bí danh Tống Văn Sơ, đã bị cảnh sát Hongkong bắt ngày 6-6-1931 tại Cửu Long (Kowloon), gần Hongkong, rồi bị trục xuất đầu năm 1933. Lý Thụy lên tàu tại Thượng Hải, đi xe lửa qua các vùng Siberia, Vladivostok, rồi đến Moscow đầu mùa xuân 1934.

Ngày 25/7/1935, tại Moscow khai mạc đại hội cộng sản quốc tế. Trong giấy tờ khai báo, Minh Khai có ghi chồng là Lin, bút danh của Hồ Chí Minh lúc đó.

“Cháu Lý Sâm”

Ít người biết chuyện này, ngoài tác giả Duiker. Vào 2 giờ sáng, ngày 6/6/1931, cảnh sát Hongkong ập vào căn phố ở Kowloon để bắt quốc tế cộng sản Nguyễn Ái Quốc. Lúc này ông ta mang giấy tờ có tên T.V. Wong (Tống Văn Sơ). Bên cạnh là một phụ nữ trẻ khai là “cháu’ của Tống Văn Sơ tên là Lý Sâm.

Người Vợ Nga

Tài liệu của ông Duiker cũng có đề cập tới một phụ nữ người Nga mà Đảng Cộng Sản Quốc Tế đã cưới cho Lin/Linov sau khi ông ta về Moscow và bị vào trường Đảng để học tập. Có tin đồn rằng Hồ có một con gái với người vợ này.

Vera Vasilieva

Vera Vasilieva

Theo lời con gái của bà Vera Vasilieva (thành viên người Nga trong tổ chức Quốc tế Cộng sản), kể cho nhà nữ sử học Sophia Quinn Judge (Hoa Kỳ), được ông Thành Tín viết lại trong sách “Về Ba Ông Thánh”, thì trong thời gian diễn ra đại hội nầy, ông Lin (tức Lý Thụy) hay ghé lại nhà bà Vera Vasilieva thăm. Mỗi lần ông tới thì có mùi nước hoa nồng nàn, ăn mặc rất chải chuốt, luôn mang cà vạt màu rất diện. Lin mang nhiều quần áo mới tặng cho mẹ con cô Vera. Có khi ông ta ở lại đêm và ngủ trên sofa.

Nông Thị Ngát hay Nông Thị Trưng

Nông Thị Ngát/ Nông Thị Trưng

Năm 1941, Hồ về Cao Bằng. Ở hang Pac Bo, dân làng người Tầy và Nùng gọi ông ta là Già Thu, chỉ riêng Nông Thị Ngát gọi là Chú Thu. Chú Thu đặt bí danh cho Ngát là Nông Thị Trưng, “hằng ngày đến lán Chú Thu một giờ để được chỉ bảo.” Cuộc tình hang Pac Bó có kết quả là người con trai Nông Đức Mạnh mà nhiều sách báo đã đề cập tới.

Đỗ Thị Lạc

1942, Già Thu rời hang Pac Bo, lấy bí danh là Hồ Chí Minh tìm đường hoạt động bên Tàu. Hồ bị quân Tưởng bắt và giam nhiều tháng ở các trại giam vùng Quảng Tây tới Tĩnh Tây. Hồ về tới Pac Bo (Cao Bằng) vào gần cuối năm 1944.

Trong số 18 cán bộ theo Hồ về nước lần nầy có Đỗ Thị Lạc tức “chị Thuần”. Nhân thân của Đỗ Thị Lạc không được rõ ràng, chỉ biết rằng vào năm 1942, khi tướng Quốc Dân Đảng Trung Hoa là Trương Phát Khuê tổ chức lớp huấn luyện chính trị và quân sự cho các tổ chức cách mạng Việt Nam ở Đại Kiều (gần Liễu Châu), Đỗ Thị Lạc theo học lớp truyền tin.

Khi về Pac Bo, Đỗ Thị Lạc được Hồ Chí Minh giới thiệu với bản làng là người thay thế Nông Thị Trưng. Lạc sống chung với họ Hồ một thời gian, lo dạy trẻ em và vận động vệ sinh ăn ở của dân chúng ở Khuổi Nậm gần Pac Bo. Sử gia Trần Trọng Kim, trong sách Một Cơn Gió Bụi (trang 75) cho biết Đỗ Thị Lạc đã có một người con gái với Hồ Chí Minh. Sau đó thì hai mẹ con mất tích.

Nông Thị Xuân

Hồ Chí Minh, Nông Thị Xuân, Nguyễn Tất Trung

Một phụ nữ xinh đẹp người Nùng, có thể nói người bất hạnh nhất trong số những người vợ của Hồ Chí Minh. Khi Hồ trở thành lãnh tụ quyền lực thì nàng cũng trở thành một người hộ lý chính thức.

Xuân không được sinh sống chung với Hồ mà bị ở một nơi khác và bị giám sát bởi một tên bộ trưởng công an rất lưu manh của Hồ Chí Minh tên là Trần Quốc Hoàn. Năm 1956, Xuân sinh cho Hồ một bé trai đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Sau đó Xuân ngõ ý muốn Hồ cho nàng trở thành một người vợ chính thức. Xuân bị thủ tiêu bằng cách trùm chăn vào đầu và đập nát đầu. Trước khi chết, Xuân còn bị tên Hoàn hãm hiếp một cách tàn nhẫn.

Vụ Hồ Chí Minh giết vợ này đã được tung ra bởi lá thư của anh bộ đội là người chồng sắp cưới của cô Vàng. Vàng là em họ của Xuân. Cô Nguyệt cũng là em họ của cô Xuân về cùng ở chung để giúp bé Trung. Vàng là nhân chứng trong vụ giết người bịt miệng rất tàn ác này do Hồ Chí Minh âm mưu tạo ra. Sau đó cô Vàng cũng bị thủ tiêu, xác cô được tìm thấy trên sông Bằng Giang. Cô Nguyệt cũng bị sát hại sau đó. Vụ giết người bịt miệng của 3 cô Xuân, Vàng, Nguyệt và một số bạn bè của các cô cũng bị giết lây được ông Vũ Thư Hiên ghi ra trong cuốn “Đêm Giữa Ban Ngày”.
Lá thư của anh bộ đội được đăng trong sách “Công Lý Đòi Hỏi” của cựu đảng viên Nguyễn Minh Cần.

Thư của anh bộ đội gởi quốc hội kể rõ chi tiết tại sao 2 cô Xuân và Vàng bị HCM và tập đoàn sát hại

Một vài hình ảnh không rõ nguồn gốc

Tài liệu mật từ Văn Phòng Chủ Tịch
Quốc hội Cộng Sản Việt Nam.
Nguyên văn bức thư này được giữ tại
Văn Phòng Chủ Tịch Quốc Hội Cộng Sản Việt Nam

Cao Bằng ngày 29-7-1983.

Kính gởi Ông Nguyễn hữu Thọ Chủ tịch Quốc hội Nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

Tôi là một thương binh đã 25 năm nay vô cùng đau khổ, không dám hé răng với ai. Không phải chỉ vì vết thương bom đạn, chiến tranh mà là một vết thương lòng vô cùng nhức nhối. Nay tôi sắp được từ giã cái xã hội vô cùng đen tối này đi sang thế giới khác, tôi phải chạy vạy rất khó khăn mới viết được bức thư này lên Chủ tịch, hy vọng ông còn lương tri, lương tâm đem ra ánh sáng một vụ bê bối vô cùng nghiêm trọng tàn ác, mà người vợ chưa cưới của tôi là một nạn nhân. Nay tôi hy vọng những tên hung thủ được lột mặt nạ trước công chúng, không để cho chúng ngồi trên đầu trên cổ nhân dân.

Nguyên từ năm 1954 tôi có người yêu tên Nguyễn thị Vàng, 22 tuổi quê làng Hà Mạ, Xã Hồng Việt, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng. Cô Vàng có người chị họ là Nguyễn thị Xuân, tên gọi trong gia đình là cô Sang tức Minh Xuân. Tôi nhập ngũ đi bộ đội cuối năm 1952. Cô Vàng và cô Xuân tình nguyện vào công tác hộ lý trong một đơn vị quân nhu. Được mấy tháng sau ông Trần Đăng Ninh, Tổng cục trưởng Tổng cục hậu cần mấy lần đến gặp cô Xuân. Đầu năm 1955 thì đem xe tới đón về Hà Nội, nói là để phục vụ Bác Hồ. Được mấy tháng sau thì cô Xuân cũng xin cho cô Vàng về Hà Nội, ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm với cô Xuân và cô Nguyệt con gái ông Hoàng văn Đệ cậu ruột cô Xuân.

Đã luôn 2 năm tôi chỉ được tiếp thư chứ không được gặp cô Vàng, người yêu của tôi. Nhưng khoảng tháng 10 năm 1957 tôi bị thương nhẹ được đưa về điều trị tại bệnh viện Huyện Hoà An. Chúng tôi vô cùng sung sướng lại được gặp nhau. Trong một tuần lể cô Vàng kể lại mọi nỗi đau xót cô đã gặp phải cho tôi nghe. Tôi xin ghi lại tỉ mỉ những lời cô Vàng tâm sự với tôi, mà không bao giờ tôi có thể lãng quên đi được. Vàng kể:

Đầu năm 1955 cô Xuân được về gặp Bác Hồ. Bác Hồ định lấy cô Xuân làm vợ chính thức. Mấy tháng sau chị Xuân xin cho em cùng về ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm, Hà Nội. Còn tầng dưới thì cho ông Nguyễn Quý Kiên, Chánh văn phòng Thủ tướng phủ ở. Vì các lãnh đạo không cho chị Xuân cùng ở với Bác trên nhà chủ tịch phủ, giao cho ông Trần Quốc Hoàn, Bộ trưởng bộ Công an trực tiếp quản lý chị Xuân, cho nên chị Xuân mới được đem về ở 66 Hàng Bông Nhuộm, nhà của Công an.

Cuối năm 1956 chị Xuân sinh được một cậu con trai. Cụ Hồ đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Em có nhiệm vụ bế cháu.

Ông Bộ trưởng Công an có nhiệm vụ quản lý chị Xuân nên thường đến luôn. Nhưng một buổi tối vào khoảng mồng 6 hay mồng 7 tháng 2 năm 1957, ông Hoàn tới, ngồi nói chuyện vu vơ một tí rồi nắm tay chị Xuân, kéo vào một cái buồng xép, từ cầu thang đi lên, vật chị Xuân lên một cái giường nhỏ, định hãm hiếp. Chị Xuân bị nhét khăn vào miệng nhưng vẫn ú ớ la lên. Em hoảng sợ la tru tréo. Còn chị Nguyệt sợ quá, rúm người lại ngồi một góc tường. Nghe tiếng cửa sổ nhà dưới xô xầm vào tường, lão Hoàn bỏ chị Xuân ra, rút khẩu súng lục trong túi áo hoa lên nói to: “Chúng mày im mồm, không ông cho chết hết” rồi hầm hầm chạy xuống thang ra ô tô chuồn.

Chị Xuân thất thểu đi ra khóc nức nở, ôm choàng lấy em. Em hỏi nó nắm tay chị, sao chị không văng vào mặt nó để nó dắt đi? Chị Xuân vừa nức nở vừa nói: Đau khổ nhục nhả lắm. Chị phải nói hết để các em tha tội cho chị. Từ hôm chị mới về nhà này, có một bà già độ 60 tuổi ở một buồn dưới nhà, vợ một cán bộ CA đã chết, lên thân mật nói chuyện với chị rằng: Sao cô ở đây một mình? Bạn đàn bà để tôi nói thật cho cô biết. Cái lão đem cô về đây là một tên côn đồ lưu manh, dâm ô tàn ác vô kể. Tôi xin kể một vài chuyện cho cô nghe. Ông Lương Khánh Thiện, một UV Trung ương, bị đế quốc Pháp giết có con gái tên là Bình. Chị Đường, vợ anh Thiện đem con gái gởi bác Hoàn nhờ bác tác thành cho. Lão Hoàn đã hiếp nó, nó chửa rồi chọn một tên lưu manh vào làm CA để gả cô Bình làm vợ. Lão lại đem một cô gái có nhan sắc nhận là cháu, cũng hiếp cô gái này cho tới chửa, rồi giết chết quăng xác xuống hồ Ha Le để khỏi mang tiếng. Cán bộ CA nhiều người biết chuyện của nó, nhưng không ai dám hở răng, vì sợ lão vu cho tội gì bắt giam rồi thủ tiêu.

Nghe chuyện đó chị cũng khủng khiếp, nhưng lại nghĩ là nó đối với mọi người khác, còn đối với mình thì nó đâu dám. Nhưng chỉ được mấy hôm sau chị nghe tiếng giầy đi nhè nhẹ lên gác, chị chạy ra thì thấy nó đi lên nhếch mép cười một cách xõ lá. Nó chào chị rồi đi thẳng vào nhà, nó ôm ghì lấy chị vào lòng rồi hôn chị. Chị xô nó ra nói: “Không được hỗn, tôi là vợ ông chủ tịch nước”. Nó cười một cách nhạo báng: “Tôi biết bà to lắm nhưng sinh mệnh bà nằm trong tay tôi”. Rồi nó lại nói: “Sinh mệnh tất cả dân tộc Việt nam, kể cả bố mẹ anh chị nhà bà cũng nằm trong tay tôi. Tôi muốn bắt ở tù, thủ tiêu đứa nào tuỳ ý. Và tôi nói cho bà biết cụ già nhà bà cũng không ngoài tay với của tôi”.

Rồi nó rút khẩu súng lục dí vào ngực chị. Chị ngồi xụp xuống ghế nói: “Anh cứ bắn đi”. Nó cười khì khì: «Tôi chưa dại gì bắn. Tôi tặng bà vật khác». Nó dắt súng vào túi quần rồi rút ra một sợi dây dù to bằng chiếc đũa, đã thắt sẳn một cái thòng lọng. Nó quàng cái tròng vào cổ chị rồi kéo chị đi lại cái giường kia, đẩy chị nằm xuống, rồi đầu sợi giây nó buộc vào chân giường. Chị khiếp sợ run như cầy sấy. Nó nói : «Bây giờ bà muốn chết tôi cho bà chết». Rồi nó lột hết quần áo chị, nó ngồi xuống ngắm nghía ngâm nga:

Rõ ràng trong ngọc trắng ngà
Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây
Phẩm tiên đã đến tay phàm
Thì vin cành quýt cho cam sự đời.

Rồi nó nằm đè lên hiếp chị. Chị xấu hổ lấy tay che mặt. Nó kéo tay chị nói: «Thanh niên nó phục vụ không khoái hơn ông già mà còn vờ làm gái». Xong nó cởi thòng lọng cho chị, rồi nó ngồi bên chị tán tỉnh hàng giờ: “Anh thương em lắm. Người ta gặp hạnh phúc phải biết hưởng hạnh phúc. Nếu em thuận tình thì muốn gì cũng có. Nó đeo vào tay chị một chiếc nhẫn vàng, chị đã ném vào nhà xí. Nó lại dặn: “Việc này phải tuyệt đối bí mật, nếu hở ra thì mất mạng cả lũ và tôi nói cho cô biết ông cụ tin tôi hơn cô”.

Rồi từ đó chị biến thành một thứ trò chơi của nó. Thấy bóng dáng nó chị như một con mèo nhìn thấy con cọp, hồn vía lên mây. Nó muốn làm gì thì tuỳ ý nó. Trong mấy tháng trời chị tính quẩn lo quanh, không biết tâm sự với ai mà không làm sao thoát khỏi nanh vuốt của nó. Nhớ lại lời nói của bà già, chị liền xin bác cho hai em về đây, mong tránh được mặt nó.

Nhưng những hôm Công an gọi các em đi làm hộ khẩu, đi làm chứng minh thư lâu hàng buổi là nó tới hành hạ chị. Nó bảo chị phải nói cho hai em biết. Phải biết câm cái miệng nếu bép xép thì mất mạng cả lũ. Hôm nay nó lại đây trắng trợn như vậy vì nó tưởng chị đã dặn hai em rồi. Bây giờ việc đã xẫy ra chị thấy rất nguy hiểm. Em nói: “Hay là chị em ta trốn đi?”. Chị Xuân nói: “Sau ngày sinh cháu Trung, chị thưa với Bác, bây giờ đã có con trai, xin bác cho mẹ con ra công khai”. Bác nói: “Cô xin như vậy là hợp tình, hợp lý. Nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được. Do đó cô đành phải chờ một thời gian nữa”. Mấy tuần trước Bác lại hỏi chị: “Các cô ở đó có nhiều người lạ tới thăm phải không?”. Chị thưa: “Ba chị em không có ai quen biết ở Hà Nội. Còn bà con ở Cao Bằng không biết chị em ở đâu”. Bác nói: “Không nhẽ ông Bộ Trưởng Công an nói dối”.

“Chị suy nghĩ mãi mới thấy rõ, nó muốn vu cáo chị em ta liên hệ với gián điệp hoặc đặc vu gì đó để định kế thoát thân nếu việc của nó bị bại lộ Bây giờ ta trốn cũng không làm sao thoát khỏi tay nó, mà nó còn vu cáo giết hại ba chị em chúng ta”. Chị Xuân lại nói: “chị bị giết cũng đáng đời, chị rất hối hận xin hai em về đây để chịu chung số phận với chị”. Em thấy nguy hiểm vì tên Hoàn đã nổi tiếng ở Bộ CA là một tên dâm bôn vô cùng tàn ác.

Đến độ một tuần sau, vào 7 giờ tối ngày 11 tháng 2 năm 1957, ngày em còn nhớ như đinh đóng cột. Một chiếc xe com măng ca thường đón chị Xuân lên gặp bác Hồ, anh Ninh xồm, người bảo vệ Trần Quốc Hoàn chuyển lên bảo vệ Bác, vào gặp chị Xuân nói lên gặp Bác. Chị Xuân mặc quần áo, xoa nước hoa rồi ra đi. Sáng hôm sau, 12 tháng 2, một nhân viên Công an Hà Nội đến báo tin chị Xuân gặp tai nạn ô tô chết rồi, hiện còn để ở nhà xác bệnh viện Phủ Doãn. Em hốt hoảng đưa cháu cho Chị Nguyệt, ra lên xe Công an vào bệnh viện. Em không được vô nhà xác, họ nói còn mổ tử thi. Lên một phòng chờ em thấy trong phòng đã khá đông người: Công an, Tòa án, Kiểm sát viên. Sau một tiếng, hai bác sĩ, một cán bộ Công an, một kiểm sát viên lên phòng chờ, đem theo một tờ biên bản đọc to lên cho mọi người nghe. Tử thi thân thể không có thương tích gì, thấy rõ không bị tai nạn ô tô và cũng không phải bị đâm chém đánh đập gì. Mổ tử thi trong cơ thể lục phủ ngũ tạng cũng không có thương tích gì. Da dầy không có thức ăn, không có thuốc độc. Tử cung không có tinh trùng biểu thị không bị hiếp dâm.

Duy chỉ có xương đỉnh đầu bị rạn nức. Mổ sọ não không còn óc, mà chỉ còn nước nhờn chảy tuôn ra. Bác sĩ tuyên bố đây có thể bị chùm chăn lên đầu rồi dùng búa đánh vào giữa đầu. Đây là phương pháp giết người của bọn lưu manh chuyên nghiệp của nhiều nước đã xử dụng. Em vô cùng đau khổ chạy về kể chuyện lại cho chị Nguyệt nghe để hai chị em cùng khóc. Ít lâu sau một cán bộ Công an đến bế cháu Trung đi, chúng em không được biết đem đi đâu. Rồi em thì được đi học một lớp y tá của khu tự trị Việt Bắc ở Thái Nguyên. Chị Nguyệt không biết họ cho đi đâu sống chết thế nào. Học mấy tháng thì em được chuyển về bệnh viện Cao Bằng, em khóc luôn, họ cho là em bị thần kinh nên cho về đây điều trị. May lại được gặp anh kể hết mọi chuyện cho anh nghe. Em nghĩ anh chỉ bị thương nhẹ, anh còn sống được lâu anh sẽ nói rõ cho toàn dân biết được vụ bê bối này. Còn em thì chắc chắn sẽ bị chúng giết vì em đã nói vụ này cho nhiều chị em bà con biết. Bọn hung thủ còn theo dõi em. Ở Cao Bằng có hôm em thấy thằng Ninh xồm tới gặp ông bác sĩ bệnh viện trưởng, được ít hôm họ tuyên bố em bị thần kinh được chuyển về điều trị tại Hoà An.

Tôi chỉ được gặp Vàng em tôi có một tháng, đến ngày mồng 2 tháng 11 năm 1957 cô Vàng đi về thăm ông cậu Hoàng văn Đệ. Hung thủ đi theo rồi giết chết em tôi quăng xác xuống sông Bằng Giang đến ngày mồng 5 tháng 11 mới nổi lên ở cầu Hoàng Bồ. Tôi được tin sửng sốt chạy về cầu Hoàng Bồ thì thi hài đã được kiểm nghiệm và chôn cất rồi. Nghe dư luận xôn xao bị đánh vở sọ, đồng hồ vẫn còn nguyên và người nhà đã nhận về chôn cất. Tôi đâm bổ về Hà Nội liên lạc được với một cậu bạn cùng học làm việc ở Toà án Hà Nội. Tôi kể vụ án em tôi bị giết thì bạn tôi sao cho tôi một bản Công Văn Viện Kiểm sát hỏi toà án về vụ em tôi và cô Xuân bị giết. Tôi xin sao bản văn đó trình ông để tiện việc điều tra. Vụ này nhiều người bị giết. Cô Xuân, vợ cụ Hồ Chí Min h, cô Vàng, vợ chưa cưới của tôi, cô Nguyệt, còn nhiều người ở Trường y tá Thái Nguyên nghe chuyện Vàng kể đi nói chuyện lại cũng bị giết lây.

Mấy chục năm nay tôi tim gan thắt ruột, nghĩ cách trả thù cho em tôi nhưng sức yếu thế cơ đành ngậm hờn chờ chết. Theo Vàng dặn lại, tôi liên hệ với một số cán bộ về hưu Công an, kiểm sát họ cho tôi biết cậu Trung ngày đó đã được đưa về cụ Bằng nuôi. Độ 4, 5 tuổi thì gửi cho Chu Văn Tấn, đến năm 13 tuổi là năm 1969 ngày Bác Hồ mất thì giao cho ông Vũ Kỳ, nguyên Thư Ký của Bác, nay là Phó Giám đốc Bảo tàng Hồ chí Minh làm con nuôi. Vũ Kỳ có 2 con đẻ là Vũ Vinh và Vũ Quang, còn Vũ Trung là con nuôi; là con chị Xuân với Bác Hồ. Tôi một thương binh sắp đi qua thế giới khác, máu hoà nước mắt viết thư này nhờ một người bạn chí tình, thành tâm bảo vệ lẽ phải, đánh máy bức thư gởi tới trình ông. Mong ông lưu ý xét cho mấy việc:

1- Các ông sẵn lòng bảo vệ chân lý điều tra cho ra những đứa thủ mưu, thủ ác, chứ không truy xét những người có lương tâm phát hiện lũ tàn ác.

2- Ở xã Hồng Việt bà con bạn hữu chị Xuân vào trạc tuổi 45 trở lên còn khá nhiều đều biết rõ ràng cô Vàng, cô Xuân, cô Nguyệt và chắc gia đình của cô Xuân còn khá nhiều di vật của cô Xuân. Nhưng tất cả mọi người đều khiếp sợ, không dám hé răng. Mong ông cho điều tra thận trọng, bí mật, vì việc điều tra này bị lộ thì cả lô bà con này bị thủ tiêu.

3- Cậu Nguyễn Tất Trung còn sống khoẻ mạnh nhưng việc điều tra lộ ra thì cậu cũng dễ dàng bị thủ tiêu. Tên hung thủ lái xe đón bà Xuân đi giết là Tạ Quang Chiến hiên nay là Tổng cục Phó Tổng cục Thể dục Thể thao. Còn tên Ninh xồm thì chúng tôi không hiểu đã leo lên chức vụ nào rồi.

Từ thế giới khác kính chúc Ngài nhiều hạnh phúc.
Vợ chồng Nguyễn Thị Vàng

English version

Ho Chi Minh’s Wives and Love
Posts by Historical Pen

The presentation with the theme “Ho Chi Minh’s Wives and Loves” is based on documents written by authors about Ho Chi Minh such as William Duiker, Pierre Brocheux, Thanh Tin (Former Communist Party member Bui Tin), Tran Trong Kim, Tran Gia Phung…

Tang Tuyet Minh

Ho Chi Minh married Tang Tuyet Minh in Guangzhou on October 10, 1926. At this time, he had the alias of Ly Thuy. The two lived together for more than half a year. In April 1927, Ly Thuy left Tang Tuyet Minh and left Guangzhou to work elsewhere, also to hide from Chiang Kai-shek’s army, who were searching for communists.

Nguyen Thi Minh Khai

Minh Khai was a member of the Indochinese Communist Party and went to Hong Kong to work in 1930, with the role of Ly Thuy’s personal secretary.

In Hong Kong, at the headquarters of the Communist International’s branch office of the Ministry of Oriental Affairs, every morning, Minh Khai studied politics personally taught by Ly Thuy. From there, a man-woman relationship arose between the two. Ly Thuy applied to the office of the Communist Far Eastern Bureau (FEB = Far Eastern Bureau) to marry Minh Khai. But in April 1931, Noulens, the office representative, wrote a letter of refusal, replying to Ly Thuy that he needed to know at least 2 months before the wedding date.

Soon after, also in April 1931, Minh Khai was arrested in Hong Kong, and was released early the following year. Ly Thuy, then alias Tong Van So, was arrested by the Hong Kong police on June 6, 1931 in Kowloon, near Hong Kong, and then deported in early 1933. Ly Thuy boarded a ship in Shanghai, took a train through the Siberian valleys, Vladivostok, and then reached Moscow in the early spring of 1934.

On July 25, 1935, the International Communist Congress opened in Moscow. In the declaration papers, Minh Khai recorded her husband as Lin, the pen name of Ho Chi Minh at that time.

Russian Wife

Mr. Duiker’s document also mentions a Russian woman whom the International Communist Party married to Lin/Linov after he returned to Moscow and was admitted to the Party school to study. Rumor has it that Ho has a daughter with this wife.

Vera Vasilieva

According to her daughter Vera Vasilieva (Russian member of the Communist International), told the historian Sophia Quinn Judge (USA), written by Mr. Thanh Tin in the book “On the Three Saints” , during this congress, Mr. Lin (ie Ly Thuy) often stopped by Vera Vasilieva’s house to visit. Every time he came, there was a strong scent of his perfume, very well dressed, always wearing a very colorful tie. Lin brought many new clothes for her mother and daughter Vera. Sometimes he stayed the night and slept on the sofa.

Nong Thi Ngat or Nong Thi Trung

In 1941, Ho returned to Cao Bang. In Pac Bo cave, the Tay and Nung villagers called him Già Thu, only Nong Thi Ngat called him Chú Thu. Chú Thu gave Ngat the alias of Nong Thi Trung, “going to Chú Thu’s shack every day for an hour for instruction.” Pac Bo’s love affair resulted in the son of Nong Duc Manh that many books and newspapers have mentioned.

Do Thi Lac

1942, Gia Thu left Pac Bo cave, took the alias Ho Chi Minh to find a way to work in China. Ho was captured by Chiang forces and held for many months in jails from Guangxi to Jingxi. Ho returned to Pac Bo near the end of 1944.

Among the 18 cadres who followed Ho back to the country this time, there was Do Thi Lac, meaning “sister Thuan”. Do Thi Lac’s identity is not clear, only know that in 1942, when the Chinese Kuomintang general Truong Phat Khue held a political and military training class for Vietnamese revolutionary organizations in Dai Kieu (near Lieu Chau), Do Thi Lac attended a communication class.

When returning to Pac Bo, Do Thi Lac was introduced to the village by Ho Chi Minh as the replacement for Nong Thi Trung. Lac lived with the Ho family for a while, taking care of children’s education and campaigning for people’s hygiene and accommodation in Khuoi Nam near Pac Bo. Historian Tran Trong Kim, in his book A Wind of Dust (page 75), said that Do Thi Lac had a daughter with Ho Chi Minh. Then the mother and daughter went missing.

Nong Thi Xuan

A beautiful Nung woman, arguably the most unfortunate of Ho Chi Minh’s wives. When Ho became the powerful leader, she also became an official personal service.

Xuan was not allowed to live with Ho but was in another place and was monitored by a very rogue police minister of Ho Chi Minh named Tran Quoc Hoan. In 1956, Xuan gave birth to a baby boy named Nguyen Tat Trung. Then Xuan asked Ho to let her become an official wife. Xuan was killed by covering her head with a blanket and smashing her head. Before her death, Xuan was brutally raped by Hoan.

This case of Ho Chi Minh’s wife’s murder was revealed by a letter from a soldier who was Ms. Vang’s fiancé. Vang is Xuan’s cousin. Vang is a witness in this very heinous silenced murder conspired by Ho Chi Minh. After that, Ms. Vang was also killed, her body was found in the Bang Giang River. The murder of two Xuan and Vang was recorded by Mr. Vu Thu Hien in “Night in Days”.

The soldier’s letter was published in the book “Justice Requires” by former Party member Nguyen Minh Can.

Sunday, September 7, 2025

KBC CỦA QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA.

 KBC CỦA QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA.


Thanh Liêm.

Trước năm 1975. tôi là quân nhân trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Không hiểu tại sao tôi lại thích những con số các KBC của các đơn vị quân đội. Rất tiếc là tôi không phục vụ trong ngành QUÂN BƯU hay làm việc có liên quan đến hành chánh, văn thư. Bởi vậy mỗi lần được nhìn thấy trên những bao thư hay các giấy tờ mà có ghi KBC là tôi để ý và cố học thuộc lòng…

Sau mấy năm sưu tầm và có dịp tiếp xúc với những quân nhân phục vụ trong ngành QUÂN BƯU tôi đã biết phần nào về KBC.
Mỗi KBC gồm có 3 chữ cái viết hoa.. KBC là viết tắt của chữ KHU BƯU CHÍNH. Tiếp theo là 4 con số. (Nghĩa là số ngàn)
Mỗi KBC là một đon vị và là địa chỉ để liên lạc văn thư, thư từ…
KBC của quân lực Việt Nam Cộng hòa được bắt đầu bằng số : 3,4,6 và 7.
KBC mang số nhỏ nhất là : KBC.3001 = Tiểu đoàn 51 Pháo Binh.
KBC mang số lớn nhất là : KBC.7889 = Tiểu đoàn 475 Địa phương quân (Long Xuyên).

KBC của các đơn bị BỘ BINH và KHÔNG QUÂN thì không theo nguyên tác nào cả. Riêng quân chủng HẢI QUÂN khi mới thành lập thì tất cả đều mang số 33 đầu và các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến cũng mang số 33 vì TQLC lúc đó thuộc về HẢI QUÂN. Cho đến năm 1972,1973 các đơn vị tân lập của HẢI QUÂN và TQLC mới mang KBC giống bên BỘ BINH.

Thông thường thì một KBC là 1 đơn vị quân đội. Nhưng có khi 1 KBC lại có thêm chữ /A hay /B như trường hợp Trung tâm huấn luyện Quang Trung KBC.4091. Trung Tâm huấn luyện này lại được chia ra làm 2 là Liên Đoàn A và Liên Đoàn B. Bởi vậy một KBC thành 3. KBC.4091 là Bộ chỉ huy trung tâm. Còn KBC.4091/A là Liên đoàn A và KBC.4091/B là Liên đoàn B.
Lại có trường hợp như Nha Quân Pháp (trực thuộc Bộ quốc Phòng) KBC.4386. Còn KBC.4386/A lại là Toà án quân sự Sài Gòn. Cả 2 KBC trên đều ở cùng 1 doanh trại là số 3A Bến Bạch Đằng, Quận 1, Sài-Gòn (sát cạnh với Phủ đặc ủy trung ương tình báo).

Thêm trường hợp nữa là chúng ta đã là quân nhân của Quân lực Việt Nam cộng hòa thì ai cũng biết KBC.4002 là Bộ tổng tham mưu/QLVNCH. Nhưng Bộ chỉ huy Quân Cảnh cũng nằm trong cùng doanh trại với Bộ TTM nên mang KBC.4002/QC một thời gian dài. Sau mới được cấp KBC riêng là KBC.4258.

Lại có trường hợp thường thấy ở các đơn vị tác chiến lưu động. Thí dụ Tiểu đoàn 1 TQLC, KBC.3333. Tiểu đoàn đang đi ‘’hành quân’’ thì trên bì thư được ghi là KBC.3333/HQ. (chắc là ghi như vậy để thư chuyển được nhanh hơn ?)

Sau đây là KBC của một số Tiểu đoàn trừ bị nổi tiếng của QL/VNCH

● Các Tiểu đoàn Nhảy Dù có:
– Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù KBC.4563
– Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù KBC.4247
– Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù KBC.4794
– Tiểu đoản 4 Nhảy Dù (không thành lập)
– Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù KBC.4709
– Tiểu đoàn 6 Nhảu Dù KBC.4143
– Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù KBC.4919
– Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù KBC.3119
– Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù KBC.4804
– Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù KBC.3727
Năm 1974 và 1975 binh chủng Nhảy Dù thành lập và dự định thành lập thêm các tiểu đoàn 12,14,15,16,17 và 18 Nhảy Dù.

● Các Tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến có:
– Bộ tư lệnh TQLC KBC.3331 (Đặt tại trại Lê Thánh Tôn, 15 đường Lê Thánh Tôn, Quận 1 Sài Gòn).
– Tiểu đoàn 1 TQLC KBC.3333
– Tiểu đoàn 2 TQLC KBC.3335
– Tiểu đoàn 3 TQLC KBC.3337
– Tiểu đoàn 4 TQLC KBC.3339
– Tiểu đoàn 5 TQLC KBC.3357
– Tiểu đoàn 6 TQLC KBC.3300
– Tiểu đoàn 7 TQLC KBC.3340
– Tiểu đoàn 8 TQLC KBC.6618
– Tiểu đoàn 9 TQLC KBC.6626

● Nói đến đơn vị trừ bị không thể quên Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù KBC.3693 với 2 câu thơ:

"An Lộc địa sử ghi chiến tích
Biệt cách dù vi quốc vong thân"

● Về binh chủng Biệt Động Quân ngoài các đơn vị BĐQ biên phòng thì còn lại cũng là những Tiểu đoàn trừ bị. Sau này các đơn vị BĐQ biên phòng đổi thành Tiểu đoàn. BĐQ gồm có 17 Liên đoàn BĐQ.Mổi liên đoàn có 3 Tiểu đoàn. Như vậy binh chủng BĐQ có trên 50 Tiểu đoàn. Vào năm 1975 binh chủng BĐQ định thành lập thành sư đoàn.

Sau đây là KBC của một số đơn vị BĐQ:
– Bộ chị huy BĐQ KBC 4205 (Đặt tại trại Đào Bá Phước, đường Tô Hiến Thành, Quận 10 Sài Gòn).
– Tiểu đoàn 33 BĐQ KBC.3446 Sài Gòn
– Tiểu đoàn 32 BĐQ KBC.3447 Phong Dinh
– Tiểu đoàn 51 BĐQ KBC.3505 Sài Gòn
– Tiểu đoàn 52 BĐQ KBC.3506 Biên Hòa
– Tiểu đoàn 37 BĐQ KBC.3507 Đà Nẵng
– Tiểu đoàn 38 BĐQ KBC.3508 Sai Gòn
– Tiểu đoàn 39 BĐQ KBC.3509 Đà Nẵng
– Tiểu đoàn 43 BĐQ KBC.3516 Vĩnh Long
– Tiểu đoàn 44 BĐQ KBC.3517 Cần Thơ
– Tiểu đoàn 34 BĐQ KBC.4013 Sai Gòn
– Tiểu đơàn 31 BĐQ KBC.4272 Biên Hòa
– Tiểu đoàn 35 BĐQ KBC.4400 Biên Hòa
– Tiểu đoàn 36 BĐQ KBC.4454 Biên Hòa
– Tiểu đoàn 42 BĐQ KBC.4533 Cần Thơ
– Tiểu đoàn 60 BĐQ KBC.7508 Đà Nẵng
– Tiểu đoàn 61 BĐQ KBC.7509 Đà Nẵng
– Tiểu đoàn 62 BĐQ KBC.7510 Kontum
– Tiểu đoàn 63 BĐQ KBC.7511 Pleiku
– Tiểu đoàn 64 BĐQ KBC.7512 Hậu Nghĩa
– Tiểu đoàn 65 BĐQ KBC.7513 Tây Ninh
– Tiểu đơàn 85 BĐQ KBC.7553 Chi Lăng
– Tiểu đoàn 86 BĐQ KBC.7554 Kiến Tường
– Tiểu đoàn 88 BĐQ KBC.7560 Kontum
– Tiểu đoàn 89 BĐQ KBC.7561 Quảng Đức
– Tiểu đoàn 90 BĐQ KBC.7562 Kontum
– Tiểu đoàn 91 BĐQ KBC.7563 Tây Ninh
– Tiểu đoàn 92 BĐQ KBC.7564 Phước Long (tức là căn cứ Tống Lê Chân đã nổi danh trong quân sử VNCH vỉ đã tử thủ mấy trăm ngày khi bị VC bao vây….)

Trên đây là một số những KBC của các đơn vị cấp Tiểu đoàn TỔNG TRỪ BỊ của QLVNCH. (ngoại trừ 1 số Tiểu đoàn BĐQ biên phòng đồn trú cố định ở biên giới). Ngoài ra các binh chủng trên còn có các đơn vị khác tuy cùng màu áo nhưng là các đơn vị không trực tiếp tác chiến như tiếp vận, hành chánh, yểm trợ, pháo binh, quân y……Hoặc cấp cao hơn Tiểu đoàn là Liên đoàn,lữ đoàn hay chiến đoàn….tất cả đều có KBC riêng.

● Như tôi đã nói ở trên các đơn vị Hải quân KBC thường mang số 33.
Và rất nhiều đơn vị Hải quân thành lập sau, KBC không mang 2 số 33 đầu.
Sau đây là một số KBC của binh chủng Hải Quân:
– Bộ tư lệnh Hải Quân KBC.3317 Bến Bạc Đằng, Sài Gòn
– Bộ tư lệnh hạm đội KBC.3328
– Trung tâm huấn luyện HQ Nha Trang KBC.3318
– Trung tâm huấn luyện HQ Cam Ranh KBC.3319
– Giang đoàn 25 xung phong KBC.3303 Cần Thơ
– Giang đoàn 28 xung phong KBC.3305 Long Xuyên
– Giang đoàn 21 xung phong KBC.3321 Mỹ Tho
– Giang đoàn 51 tuần thám KBC.3332 Cát Lái…

Tại Quân khu 3 và Biệt khu thủ đô nếu nhập ngũ thường được tập trung ở Trung Tâm 3 tuyển mộ và nhập ngũ (ở Quang Trung) KBC.4113. Chính nơi đây các tân binh được khám sức khỏe,phân loại máu, phân loại (về sức khỏe), cấp quân trang, thẻ bài. Sau đo thường được chuyển qua Trung tâm huấn luyện Quang Trung ở gần đó để thụ huấn quân sự. Sau khóa sẽ được phân phối quân số cho tất cả đơn vị trên toàn quốc. Riêng các tân binh được về các binh chủng đặc biệt như Nhảy dù, TQLC,BĐQ hay các chuyên ngành khác như truyền tin,công binh, Pháo binh,tiếp vận,quân y,hành chánh tài chánh…..sẽ tiếp tục theo các khóa chuyên nghiệp mà đã được chọn.

Đài phát thanh quân đội được mang KBC.3168. Không thể nào quên được với giọng nói trìu mến của xướng ngôn viên Dạ Lan.

Các quân nhân chuẩn bị du học. Đa số là quân nhân của quân chủng Không quân và Hải quân thì hầu hết phải qua cánh cổng của trường sinh ngữ quân đội ở Gò Vấp KBC.3095.

● Sau đây là KBC của một số trường và trung tân huấn luyện:
– Trung tâm huấn luyện Quang Trung KBC.4091
– Trường Bộ Binh Thủ Đức KBC.4100
– Trường võ bị Đà Lạt kBC.4027
– Trường hạ sĩ quan Đồng Đế (Nha Trang) KBC.4311
– Trường Quân cảnh (Vũng Tàu) KBC.3042
– Trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp (Bà Rịa) KBC.4432
– Trường Quân khuyển (Gò Vấp) KBC.4941
– Trung tâm huấn luyện Lam Sơn (Dục Mỹ) KBC.4926
– Trường Thiếu sinh quân (Vũng Tàu) KBC.4437

Các quân nhân nào ở Quân khu 3 và Biệt khu thủ đô mà biệt phái ngoại ngạch (như các công chức, giáo sư, chuyên viên….) hoặc chờ thuyên chuyển sau khi xuất viện (bị thương,bệnh….) hoặc chở giải ngũ thì quân số thuộc về Trung tâm quản trị trung ương KBC.4204 (đường Tô Hiến Thành, Quận 10, Sài Gòn)

● Sau đây là một số KBC của quân chủng Không quân:
– Bộ tư lệnh Không quân KBC.3011 (Tân Sơn Nhứt)
– Đại đội tổng hành dinh Không quân KBC.3009 (Tân Sơn Nhứt)
– Sư đoàn 1 Không quân KBC.3198 (Đà Nẵng)
– Sư đoàn 2 Không quân KBC.3126 (Nha Trang)
– Sư đoàn 3 Không Quân KBC.3004 (Biên Hòa)
– Sư đoàn 4 Không quân KBC.4652 (Phong Dinh)
– Sư đoàn 5 Không quân KBC.4324 (Tân Sơn Nhứt)
– Sư đoàn 6 Không quân KBC.3533 (Phù Cát)

Chỉ ba chữ KBC và vài con số kèm theo vừa đưa tôi nhớ lại một số đơn vị Hải quân,Không quân,Bộ binh. Chữ KBC đã gắn bó với đời lính nhiều tháng, năm ./.


Post code = KBC .
Ngày xưa có nhiều câu nói dùng chữ KBC lắm .
thí dụ như:-
.- Trông cách ăn mặc là biết bọn đó thuộc KBC nào rồi!
- Từ KBC viết về thăm em ( bài hát )
Chữ KBC được dùng rộng rãi trong xã hội và nhiều khi không liên quan , chẳng dính dáng gì đến quân đội. Thí dụ : - Nghe con nhỏ / thằng nhỏ mở miệng ra là biết nó thuộc KBC nào rồi.( Ý nói đến loại người nào )
Hoặc - -Đừng làm mất mặt KBC nghe mày ( ý nói là đừng làm mất mặt bọn mình nghe mày )
Hiện nay ngành bưu điện ở VN sao không nghiên cứu đến cách dùng Post Code KBC cho gọn gàng tiện lợi nhỉ. Trong khi người ngoại quốc gửi thư, gửi quà chỉ cần viết vài hàng ngắn gọn và cái Post Code KBC thì người Việt phải viết một cái địa chỉ dài lê thê. Thí dụ gửi Miss Hà Lội số nhà 13 ngách 200/7 Ngõ 200 Đường Bà Tưng Phường Cầu Treo Quận Long Biên Thành Phố Hà Nội Việt Nam. Trong khi đó ở ngoại quốc chỉ viết vài dòng thí dụ mr Nguyễn, 1 Saigon Place, Bankstown NSW 2200. Australia.
Nói như dân Sài gòn “ nhìn một cái là biết nó thuộc KBC nào rồi “ chữ KBC trong trường hợp này lại có nghĩa là đẳng cấp .



Bổ sung thêm
Cục Quân y 4545
Tổng y viện Cộng hoà 4600
LD 2 BDQ 4228
TD 11BDQ 4047
QYV Trần ngọc Minh 3542